Danh sách các nhạc cụ truyền thống Thái Lan Âm nhạc Thái Lan

Bộ dây

cụ ông ở Mae On, gần Chiang Mai chơi đàn suengBé trai người Thái chơi đàn KhimBiểu diễn dân ca tại Wat Khung Taphao

Gảy

  • Krachappi (กระจับปี่) - cây đàn lute có thùng đàn tròn hoặc bầu dục, cần dài có nguồn gốc từ Campuchia
  • Chakhe (จะเข้) - đàn zither trên sàn có hình con cá sấu với ba dây. Hai dây đầu tiên được làm từ nilon, và dây cuối cùng được làm từ đồng
  • Phin (พิณ) - đàn lute ba dây được sử dụng ở vùng Isản
  • Phin phia (พิณเพียะ) - nhạc cụ làm từ một ống nứa dài khoảng 70 đến 90 cm, đường kính từ 5 đến 8 cm, hai đầu ống đều có mấu kín. Phía chân đàn, phần dưới mấu nứa có mắc một đầu dây vào, phần đầu dây còn lại quấn vào những trục lên dây bằng gỗ, cắm xuyên qua ống ở phía đầu đàn. Mỗi dây đàn làm từ nilon phát ra một âm, được tăng độ vang bằng ống tre. Tuy nhiên, có lẽ do ống tre có độ vang kém nên một số nghệ nhân đã nghĩ ra cách gắn thêm nửa quả bầu khô rỗng ruột ở dưới các dây phía chân đàn để làm tăng độ vang của âm thanh. Một số người khác lại gắn thêm nửa quả bầu khô rỗng ruột (đường kính nhỏ hơn quả bầu kia một chút) vào phía đầu đàn (nơi có trục vặn dây). Nửa quả bầu này không có mặt trên. Hầu hết phin phia do người Thái miền Bắc chơi.
  • Sueng (ซึง) - đàn lute 4 dây từ khu vực phía bắc.
  • Phin hai (พิณไห) hay hai song (ไหซอง) - một bộ bình bằng đất nung có dây chun căng trên miệng.

Kéo

Đàn nhị xò đuông

(ซอ) là từ để chỉ nhạc cụ dây dùng vĩ của người Thái. Chúng được tiếp nhận từ hồ cầm Trung Quốc nhưng có sự cải biên. Sự đa dạng của các loại nhạc cụ được mở rộng khi vương quốc Thái ở bán đảo Đông Dương tiếp xúc với Ấn Độ. Sau đó Thái Lan cũng áp dụng các nhạc cụ phương Tây như violinorgan. Bao gồm:

    • Xò đuông: Bát đàn (bát nhị hay hộp cộng hưởng) làm bằng ống tre hình trụ; cần đàn, dây và trục cùng cung kéo mắc liền có cấu trúc tương đương tương tự đàn nhị Việt Nam, hay các loại đàn nhị và hồ cầm có cung vĩ mắc liền của Trung Quốc.
    • Xò u: Cấu tạo như đàn da hồ (đàn gáo) của Trung Quốc hay Việt Nam, cần đàn làm bằng tre, hộp cộng hưởng làm từ gáo dừa hay vỏ quả thốt nốt phơi khô.
    • Xò xảm xài: Đàn vĩ kéo của vùng Sukhothai. Nó có ảnh hưởng từ đàn rebab kiểu Indonesia và đàn tro của người Khmer, Campuchia
    • Xò pip hay saw krapawng (xò krapăng ซอกระป๋อง - miền Đông Bắc Thái Lan): Nó có hộp cộng hưởng làm từ vỏ lon bằng nhôm. Đây là loại đàn nhị tự chế của Người Thái, có cấu trúc tương tự đàn nhị Việt Nam, hay các loại đàn nhị và hồ cầm có cung vĩ mắc liền của Trung Quốc.
    • Xò bang (ซอบั้ง): Nhạc cụ vĩ kéo của người Isản. Nó là ống nứa làm đàn, có hai dây làm bằng tơ tằm, hoặc tách trực tiếp từ thân ống nứa. Ngày nay, ngoài việc sử dụng dây bằng kim loại sắt người ta còn bổ sung thêm dây thứ ba cùng chất liệu. Cung kéo làm từ một thanh tre mỏng, có chiều dài khoảng 45cm, rộng khoảng 1cm; dây cung thường được làm từ lông đuôi ngựa nhưng phổ biến là làm từ những sợi cước nhỏ. Tại Việt Nam, dân tộc Thái gọi là xi xa lo hoặc xò lò.
    • Xò lò: Xò lò có cấu tạo nhỏ hơn xò xảm xài và là nhạc cụ của vùng Lan Na. Trước kia xò lò có hai dây làm bằng tơ tằm hoặc vải thổ cẩm Thái. Ngày nay ngoài việc sử dụng dây kim loại, người ta còn bổ sung thêm dây thứ ba cùng chất liệu. Vĩ kéo làm từ một thanh tre mỏng, có chiều dài khoảng 45 cm, rộng khoảng 1 cm. Dây cung được làm từ sợi cước, nhưng để giai điệu êm ái, mượt mà thì dùng vật liệu đuôi ngựa là tốt hơn cả. Thân hoặc hộp cộng hưởng xò lò được làm từ gáo dừa, mặt đàn làm từ da bò hoặc da dê và nỏ hơn so với xò xảm xài. Hai dây đàn của nó mắc qua ngựa đàn hoặc mặt đàn của hộp cộng hưởng. Tổng chiều dài của xò lò ước tính xấp xỉ 1,7 mét. Cần đàn làm từ gỗ hoặc ngà voi, giữa cần được bọc bởi kim loại. Không nên nhầm lẫn giữa xò lò Thái Lan và xò lò của dân tộc Thái ở Việt Nam.

Bộ gõ

Trống

Trống Thái -taphon
  • Taphon (ตะโพน) hoặc klawng taphon (กลอง ตะโพน) - trống thùng lớn; chơi bằng tay và được sử dụng trong dàn nhạc piphat
  • Taphon mon (ตะโพน มอญ) - trống lớn được chơi bằng tay, được sử dụng trong pipet mon.

Klong that (กลอง ทัด) - trống lớn được chơi bằng gậy; thường được chơi theo cặp và được sử dụng trong ban hòa tấu piphat chatri.

  • Klong chatri (กลอง ชาตรี), còn được gọi là klong tuk (กลอง ตุ๊ก) - giống klong nhưng nhỏ hơn, được chơi bằng gậy; được sử dụng trong piphat
  • Rammana (รำมะนา) - trống khung; chơi bằng tay
  • Thon (โทน): trống chỉ có một mặt bịt bằng da bò hoặc da dê, đường kính khoảng 44–50 cm. Tang trống sử dụng gỗ lim hoặc gỗ cà chỉ liền khối đục rỗng có độ cao chỉ khoảng 9 cm. Mặt trống được cǎng bằng hai đai tròn làm từ một đoạn mây song và một hệ thống dây chằng đan chéo nhau để cǎng mặt trống. Từ giữa tang đến vành phía dưới là những con nêm để cǎng trống khi bị trùng. Nó có thân gần giống hình chiếc cốc uống nước, tương tự như trống Djembe của châu Phi nhưng chân trống nhỏ hơn. Một đầu của mặt trống được che, người chơi có thể đặt chân xuống để vỗ mặt trống, hoặc kẹp vào mặt trống để chơi. Gồm 2 loại:
    • Thon chatri (โทนชาตรี)
    • Thon mahori (โทนมโหรี)
  • Klong thap (กลอง ทับ) - trống cốc được sử dụng chủ yếu trong âm nhạc dân gian miền nam Thái Lan, cũng được sử dụng để tạo nhịp ở miền nam cho các buổi biểu diễn hoặc kịch dân gian Nora (โนรา).
  • Klong khaek (กลอง แขก) - thùng phuy; chơi bằng tay và thường chơi theo cặp
  • Klong song na (กลอง สอง หน้า) - thùng phuy; chơi bằng tay
  • Klong yao (กลอง ยาว) - trống dài; chơi bằng tay

Poeng mang khok (เปิงมาง คอก), hoặc đơn giản là poeng mang (เปิงมาง) - bộ trống điều chỉnh được sử dụng trong pipet mon

  • Klong bantho (กลอง บัณเฑาะว์) - trống đồng hồ cát nhỏ nhất, giống như Damaru và Dhadd ở Ấn Độ ; được sử dụng trong nghi lễ Bà La Môn giáo - Ấn Độ giáo của Hoàng gia Thái Lan hoặc nghi lễ về Hoàng gia Thái Lan
  • Klong seng (กลอง เส็ง), Klong ching (กลอง จิ่ง), hoặc Klong tae (กลอง แตะ): trống lớn được chơi bằng gậy; nói chung là chơi theo cặp và được sử dụng trong cạnh tranh trong khu vực Isản, đặc biệt bởi người Phu Thái.

Cồng chiêng

  • Khong wong lek (ฆ้องวง เล็ก) - dàn chiêng cao hơn; bao gồm nhiều chiếc cồng nhỏ điều chỉnh được gắn trong một khung mây
  • Khong wong yai (ฆ้องวง ใหญ่) - chiêng dàn dưới; bao gồm nhiều chiếc cồng nhỏ điều chỉnh được gắn trong một khung mây
  • Khong mon (ฆ้อง มอญ) - một bộ gồm nhiều chiếc cồng nhỏ được điều chỉnh, xếp thành khung cong thẳng đứng; thường chủ yếu trong nhạc tang lễ
  • Khong rang (ฆ้อง ราง) - bộ tám chiếc chiêng được điều chỉnh treo ngang trong một khung thẳng; tương tự như kulintang tại miền nam Philippines.

Khong chai (ฆ้องชัย), còn được gọi là khong hui (ฆ้องหุ่ย) hoặc khong mui (ฆ้อง มุ่ย) - chiếc cồng khổng lồ có hình trùm được sử dụng để điểm thời gianKhong mong (ฆ้องโหม่ง) hay mong (โหม่ง) - loại cồng treo cỡ trung bình được sử dụng trong các ban nhạc TháiKhong meng (ฆ้องเหม่ง) hay khong kratae (ฆ้องกระแต) - chiếc chiêng nhỏ có trùm đầu được sử dụng như một thiết bị phát tín hiệu và trong các cuộc diễu hành truyền thống với klawng yao

  • Khong rao (ฆ้อง ราว) - ba chiếc cồng (nhỏ, vừa và lớn) treo thẳng đứng trong một khung gỗ; hiếm

Khong khu (ฆ้อง คู่) - cặp chiêng nhỏ treo ngang trong hộp gỗ; được sử dụng trong âm nhạc sân khấu và âm nhạc của miền nam Thái LanWong khong chai (วง ฆ้องชัย) - bộ bảy chiếc cồng lớn có hình trùm được treo thẳng đứng trong một khung hình tròn.

Các loại mộc cầm

Ranat (ระนาด) là phân họ đàn mộc cầm Thái Lan. Chúng bao gồm:

  • Ranat ek (ระนาดเอก) Các phím của Ranad Ek không chạm nhau mà được treo trên 2 dây tương tự như một cây cầu treo. Ranad Ek gồm 21-22 phím bằng gỗ, có kích thước khác nhau để tạo ra âm thanh khác nhau. Ranat Ek được chơi bởi hai cái vồ. Các vồ cứng tạo những âm thanh sắc nét, tươi sáng khi nhấn và được sử dụng trong những tiết mục chơi nhanh. Các vồ mềm tạo ra một giai điệu êm dịu và nhẹ nhàng hơn được sử dụng cho các bài hát. Loại đàn này thường được chơi bằng hai vồ và được sử dụng trong âm nhạc cổ điển và sân khấu của Thái Lan. Ở Campuchia gọi là roneat ek, Myanmar gọi là pattala.
  • Ranat Ek Lek (ระนาดเอก เหล็ก): cũng tương tự như Ranat Ek, nhưng các phím được làm bằng kim loại, thay vì gỗ. Các phím kim loại phẳng được đặt trên một hộp cộng hưởng bằng gỗ.

Một loại tương tự như Ranat Ek Lek là Ranak Thum Lek (ระนาดทุ้ม เหล็ก) nhưng tạo ra âm thanh thấp hơn Ranat Ek Lek. Sự khác biệt lớn nhất là tất cả các phím lớn hơn nên tạo âm thanh thấp hơn.

  • Ranat kaeo (ระนาดแก้ว): loại mộc cầm có phím gắn trong thùng gỗ chữ nhật.
  • Ranat thum (ระนาดทุ้ม): tương tự ranat ek nhưng âm vực thấp hơn.
  • Pong lang (โปงลาง): đàn mộc cầm của người Isản. Nó có cấu tạo gần giống t'rưng Việt Nam với các phím làm bằng gỗ sồi có kích cỡ khác nhau. Pong lang chuyên nghiệp có khoảng 7 đến 13 phím xếp thành hàng trên giá đàn theo thứ tự đi dần xuống từ phím lớn đến phím nhỏ. Khi dùng dùi gõ vào các phím sẽ tạo thành âm thanh cao thấp khác nhau tùy độ to, nhỏ, dài, ngắn của phím. Những phím to và dài phát ra âm trầm, còn những phím nhỏ và ngắn có âm cao. Âm sắc của đàn pong lang đục, tiếng vang xa. Nghe tiếng đàn pong lang ta có cảm giác như tiếng suối róc rách, tiếng thác đổ, tiếng xào xạc của rừng tre nứa khi gió thổi.

Phách

  • Krap phướng (กรับ พวง) - bó gỗ cứng và thanh đồng, buộc lại với nhau ở một đầu.
  • Krap sepha (ก รับ เสภา) - cặp phách tre hoặc gỗ cứng

Chuông và chũm chọe

  • Kangsdal (กังสดาล) - chuông được làm từ đồng, thường được sử dụng trong các nghi lễ Phật giáo
  • Ching (ฉิ่ง chình) - một cặp chũm chọe nhỏ, dày được nối bằng một sợi dây; dùng để đánh dấu thời gian
  • Chạp (ฉาบ) - một cặp chũm chọe phẳng được nối bằng một sợi dây

Chạp lếk (ฉาบ เล็ก) - nhỏ hơnChạp yải (ฉาบ ใหญ่) - lớn hơn

Nhạc cụ hơi

Sáo

Lỗ thổi của cây khlủi
  • Khlủi (tiếng Thái: ขลุ่ย) là một loại sáo dọc từ Thái Lan. Xuất xứ trước hoặc trong thời kỳ Sukhothai (1238-1583AD) cùng với nhiều nhạc cụ Thái. Tuy nhiên, nó đã chính thức được ghi nhận như một công cụ Thái bởi vua Trailokkanat (1431-1488), người đã thiết lập mô hình chính thức của các cụ. Nó là một công cụ reedless, thường làm bằng tre, mặc dù công cụ này cũng được làm từ gỗ cứng hoặc nhựa. Sau nhiều thế hệ thay đổi, nó tồn tại cho đến ngày nay.

Có ba loại Khlui, đó là vẫn còn phổ biến cho tới ngày nay là khlui phiang aw (khlủi phiềng au),khlui phiang lib (khlủi phiềng líp) và khlui u (khlủi u).

Hai cây pí Phu Thái
  • Pí Phu Thái (tiếng Thái: ปี่ภูไท) hay pí Luk Kha (ปี่ลูกแคน) là một nhạc cụ của dân tộc Phu Thái thuộc các tỉnh như Nakhon Phanom, Udon Thani, Mukdahan ở phía đông bắc của Thái Lan và trong Savannakhet, các quận XiengkhuangKhammuane ở Lào. Hầu hết các loại sáo này đã biến mất. Bởi vì tre hoặc nứa đang bắt đầu khan hiếm vì pí Phu Thái không có nhiều như ngày xưa tương tự như sáo pí của miền bắc vì nó có lưỡi gà làm bằng kim loại, như vàng, đồng.Âm thanh pí Phu Thái nghe giống như tiếng sáo ba ô Trung Quốc hay sáo mèo.

Pí Phu Thái là ống nứa tép dài từ 20 đến 60 cm, đường kính từ 1,5 đến 2 cm. Nó có 1 đầu bịt mấu kín, ngay sát mấu kín là 1 lỗ hình chữ nhật có cạnh ngắn 1 cm và cạnh dài 2 cm, được bịt kín bằng đầu bát mỏng chứa lưỡi gà tam giác, phần dưới của nó nhọn và được cắt vát chéo.

  • Pí chum (ปี่จุม) là loại sáo thổi gắn lưỡi gà của người Thái vùng Làn Nà làm từ ống nứa tép hoặc tre. Nó được dùng để đệm hát cho dân ca Làn Nà, theo phân loại về kích thước thì pí chum có các loại sau:
    • Pí mae (ปี่แม่): Pí giọng trầm 8 lỗ
    • Pí klang (ปี่กลาง): có âm vực trung bình.
  • Pí koi (ปี่เล็ก): dài từ 30 đến 40 cm, đường kính to hơn hoặc bằng 1 cm
    • Pí lek (ปี่เล็ก): Âm vực cao của nó không khác gì sáo ba ô hay sáo mèo nữ Trung Quốc.
  • Wot (โหวด) - sáo ống tròn sử dụng trong khu vực Isản. Chơi bằng cách giữ giữa hai bàn tay và trong khi xoay, thổi xuống các đường ống.

Kèn và khèn

Khèn bè Thái Lan

Khèn bè là cách gọi loại nhạc cụ với dàn ống giống như chiếc bè. Đây là nhạc cụ có xuất xứ từ các nước Đông Nam Á. Ở Thái Lan chúng bao gồm:

  • Khaen hok (แคน หก, hok có nghĩa là "sáu") - khèn bè nhỏ với 12 ống trong hai hàng 6; thường được trẻ em hoặc người mới bắt đầu sử dụng hoặc bán cho khách du lịch
  • Khaen jet (แคน เจ็ด) - khèn bè cỡ trung bình với 14 ống trong hai hàng 7
  • Khaen paet (แคน แปด, paet có nghĩa là "tám") - khèn bè cỡ vừa với 16 ống chia thành hai hàng 8; loại được sử dụng phổ biến nhất
  • Khaen gao (แคน เก้า, gao nghĩa là "chín") - khèn bè có 18 ống trong hai hàng 9; thường rất dài
  • Khaen sip (แคน สิบ, nhâm nhi có nghĩa là "mười") - một phiên bản khèn bè cải tiến của khaen paet ; ít sử dụng
Kèn pí-mon (Pi mon) ở một bảo tàng dân tộc ở Thái Lan
  • Pí (ปี่) là nhạc khí hơi dăm kép rất phổ biến ở xứ chùa vàng. Loại kèn bầu này thường diễn tấu nhạc cụ này với trống, chũm choẹ và chuông, đôi khi kết hợp với thanh la. Chúng bao gồm:
    • Pí mon (tiếng Thái: ปี่ สอง) là kèn bầu của Thái Lan, như pí choa nhưng lớn hơn. Lao-pí (เลาปี่, thân của pí) được làm từ gỗ. Lamphoong (ลำโพง, miệng của pí) được làm từ kim loại. Các pí mon thường được chơi trong bản hòa tấu nhạc cung đình hoàng gia Thái và những bài dân ca Thái, kể cả múa mặt nạ Khổn.
  • Pí choa (ปี่ชวา) hay pí-xoỏng-thon (pi song thon ปี่ สอง ท่อน) là loại kèn bầu gỗ Thái Lan Các thành phần chính bao gồm: Laopi (thân kèn), làm bằng gỗ cứng hoặc ngà voi, dài khoảng 27 cm, có thể cắt, tạo hình, khoan, 7 lỗ, được sắp xếp theo vị trí giống như ống sáo. Loa kèn pí choa được làm bằng gỗ cứng hoặc ngà voi. Phổ biến để sử dụng cùng một chất liệu như Lao Pi Có thể tách rời khỏi vòng lặp một cách độc lập. Cuối loa hơi loe ra để khuếch đại âm thanh. Đầu thổi làm từ lá cọ khô, ráp 4 miếng mỏng lại với nhau và gắn vào một thanh kim loại nhỏ. (Gọi là móc buộc), được làm bằng đồng thau hoặc bạc, được gọi là "kamphuat". Từ một số bằng chứng, họ đã sử dụng pi chawa trong Krabuan Phayuhayattra (กระบวน พยุหยาตรา, hành quân) vào thời kỳ tiền Ayutthaya. Các pi chawa ngày nay được sử dụng chủ yếu trong các nghi thức tang lễ.
  • Pí nài (ปี่ใน) Thái Lan được làm từ gỗ lim, dài khoảng 30cm, được chia làm 3 đoạn ghép lại với nhau, có tất cả 8 lỗ và 1 chiếc lưỡi kèn (được làm từ lá thốt nốt khô). Dăm kèm có 1 đầu dẹp, một đầu tròn được cột chặt vào ống nối. Dăm kèn có vai trò quan trọng đặc biệt, nó không được quá khô cứng cũng như không được quá mềm mỏng. Dăm kèn phải đảm bảo được sự ngân vang từ đầu đến cuối không được cắt ngang khi chưa dứt bản nhạc. Thân kèn Có hình ống phình ở giữa và loe 2 đầu. Trên thân kèn được khoét các lỗ bấm để xác định cao độ. Ống nối được gắn vào thân bằng một loại sáp để đảm bảo không bị hở. Lúc diễn tấu, người chơi đặt dăm kèn thẳng đứng cắt ngang lưỡi và thổi để tạo ra âm thanh. Kỹ thuật khó nhất khi diễn tấu pí nài là cách lấy hơi. Người chơi phải vừa thổi, vừa lấy hơi bằng mũi để làm sao tiếng kèn không bị ngắt khi chưa hết bản nhạc. Trong quá trình diễn tấu, người chơi có thể áp dụng các kỹ thuật điều khiển lưỡi để tạo ra các âm thanh đặc biệt. Pí nài cùng với khèn bè, đàn ranat ek, đàn nhị saw u, saw duang,... trong dàn nhạc dân gian Hoàng gia pinphat. Pí nài giống với Saranai của người Chăm và sralai của người Khmer.
  • Hồ lô sanh: được sử dụng bởi các dân tộc như người Akha (gọi là lachi), người Lật Túc (gọi là fulu ) và người La Hủngười Lự (gọi là naw) ở các vùng cao phía bắc Thái Lan.